Sự tích ông Đùng, bà ĐùngChuyện kể rằng, ngày xửa ngày xưa, trời đất còn chưa phân tách rõ ràng, nhờ có mụ Dạ Dần đẻ đất đẻ nước mà người Mường có các xứ Mường như ngày nay. Quảng cáo
0:00
/
2:49
Chọn giọng đọc
![]() ![]() Đọc truyện: Sự tích ông Đùng, bà ĐùngChuyện kể rằng, ngày xửa ngày xưa, trời đất còn chưa phân tách rõ ràng, nhờ có mụ Dạ Dần đẻ đất đẻ nước mà người Mường có các xứ Mường như ngày nay. Khi Mường Bi được tạo lập xong thì dân Mường thấy xuất hiện một đôi vợ chồng to lớn khác thường. Ông Đùng và bà Đùng đứng cao lắm, có dễ đứng cao hơn năm lần đỉnh núi cao nhất. Đứng ở Mường Bi mà nhìn lên tận Châu Mộc, Sơn La, nhìn xuống mãi đồng bằng giáp biển, nhìn xa tới Thanh Hóa. Không biết học ai mà ông bà nói được tiếng Mường. Người Mường thấy ông bà cao lớn quá, gọi là ông Đùng, bà Đùng nghĩa là ông bà khổng lồ. Người ta còn đồn rằng, ông bà Đùng là người nhà Trời, xuống giúp dân Mường Bi gây dựng cơ nghiệp. Mụ Dạ Dần làm ra đất nước, song đất nước hồi ấy còn chưa ra một cơ ngơi đâu và đâu cả. Đất thì cao thấp lồi lõm, cây cối mọc nhằng nhịt rối bời. Nước thì chảy từ trong lòng đất ra, chảy khắp Mường tràn trề, chan chứa. Ông Đùng, bà Đùng liền ra tay nhổ cây, san đất. Chỉ vẻn vẹn có một ngày, ông bà đã làm thành cánh đồng Thạch Bi rộng rãi, màu mỡ để lấy chỗ cho dân Mường ở và cày cấy. Lại thấy nước quá nhiều, ông Đùng bàn với vợ làm một con đường lớn dẫn nước đi. Bà Đùng thuận lời chồng và hai ông bà khởi công bới đất từ Sơn La trở xuống. Ông Đùng lom khom dùng tay bới đất đằng trước, bà Đùng hì hụi vét đất đằng sau. Hai ông bà vừa làm vừa nói chuyện nên không thấy mệt mỏi gì cả. Họ làm suốt từ lúc mặt trời thức đến lúc mặt trời đi ngủ vẫn không nghỉ. Họ làm liền từ lúc trăng mẹ đẻ hàng vạn trăng non (tức sao), rồi các con đi xa hết vẫn chưa thôi. Dòng nước theo con đường mới do ông bà Đùng đào bới vượt qua núi, qua đồi, đổ về xuôi, chảy thành dòng hẳn hoi chứ không tràn lan như trước nữa. Làm xong, ông bà Đùng ngẩng đầu nhìn lại mới hay sông có dài thật nhưng vì mải chuyện, lại bới vét cả ban đêm nên không thẳng như dự tính mà ngoằn ngoèo như sông Đà bây giờ. Những nơi đất đá vét chưa hết cản trở tạo thành thác ghềnh. Cũng chính vì thế mà sông Đà có đến “trăm bảy mươi thác, trăm ba mươi ghềnh”. Bài học rút raSức mạnh và tầm vóc của con người:
Tinh thần lao động hăng say:
Hé lộ những bí ẩn của thiên nhiên:
Đố vui qua truyện Sự tích ông Đùng, bà Đùng
|